Astrology.vn - Bởi chúng sanh đã lâu, huân nhiễm nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động, kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay tuệ quang soi sáng rất ít. Vàng ròng lẫn trong chất quặng, trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Cố hương, lầm về chốn nào?

 

Dịch

Trẫm nghe bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng, tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm được mối manh; tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng; có không chung lại, đạo tục san bằng; sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài. Đây là trọng yếu tánh Kim Cang vậy.

Bởi chúng sanh đã lâu, huân nhiễm nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động, kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay tuệ quang soi sáng rất ít. Bèn khiến bốn phương đổi chỗ, mơ màng hướng về; lối tẽ đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ. Bản giác thủy giác đâu rành, chân tâm vọng tâm khó phân biệt. Vàng ròng lẫn trong chất quặng, trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Cố hương, lầm về chốn nào? Diện mục, quên mất bản lai. Trên đường Niết-bàn rất khó tiến lên, hang ổ sanh tử chui vào có lúc. Cho nên thầy ta bậc Năng Nhân chỉ “vô sanh từ nhẫn”; vì thương các khổ đắm chìm nên ôm ấp “tứ hoằng thệ nguyện”; nhọc nhằn da diết “tam tư”. Pháp thân lắng lặng, Báo thân hiện ra, điềm lành hiện rõ ở triều Chu. Chánh pháp đi, Tượng pháp lại, nơi điện Hán mộng thấy người vàng. Ngài Ca-diếp Ma-đằng, Trúc Pháp Lan chở kinh vào, Tây Trúc (Ấn Độ) Chấn Đán (Trung Hoa) mới thông. Kinh chữ Phạn dịch ra văn Trung Hoa sáng tỏ, đổi lá bối viết vào giấy lụa. Biển giáo phô bày mọi trân bảo, nghĩa trời hiện rực các vì sao. Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn, hoặc mong bổ túc chỗ còn sót, nối gót theo lối Y Ngô, tiến chân trên đường Lưu sa. Vượt biển không xa, quyết chí về Trung Quốc. Từ đời Hán bắt đầu, đến nay mở rộng. Nào là: Thiên, Viên, Bán, Mãn không thiếu ở hòm châu. Nào là: Đốn, Tiệm, Thật, Quyền dẫy đầy trong rương báu.

Kinh “Kim Cang Tam-muội”, há chẳng phải là loại viên mãn đốn thật hay sao? Nếu chẳng vậy, sao dùng pháp yếu “vô sanh”, trình thần thông làm phương tiện. Đại sĩ (Bồ-tát) hỏi nhân xuất thế. Tôn giả (Phật) gieo quả cứu kính. Muốn dẹp trừ có trụ có diệt, trước nên vô tướng vô sanh. Thấy sanh niệm nơi vọng niệm là mờ, khởi thủy giác nơi bản giác là lợi. Chuyển các tình thức vào thức Am-ma-la. Quên đầu không đoái thân mình, duỗi tay dắt về nơi thật tế. Nếu chấp ngoại trần duyên hợp là có, liền bàn chân tánh vốn không và tam tướng không quan hệ, tứ thiền làm gì có? Hòa các vị thành vô thượng vị, đùa các dòng thành dòng sông bất nhị. Xoay chuyển vọng tâm biến kế, tiếp nhập thức Như Lai Tàng, bao gồm hiển bày một tâm. Người nhân chấp mà mê, như Man, Thục giữ nhau. Người tùy sai mà ngộ, như Lỗ, Tề một lần đổi.

Trẫm xét đức làm chủ cả nước, chăn dắt muôn dân, mỗi khi nghĩ đến gian nan, quên mất sớm tối. Việc tuy hằng vạn, trộm lúc rảnh rang, chăm việc tiếc giờ, học càng tăng tiến. Chữ nghĩa còn ngại chưa rành, đêm đến canh khuya mà vẫn còn chăm học. Đã đọc sách Khổng Tử, lại xem kinh nhà Phật. Kinh này một phen xem, trăm thứ cảm hứng nảy sanh, tìm tòi chỗ thâm áo, ba nhẩm chín suy. Gặm nhấm nghĩa vị, thu thập văn hoa, muốn rõ lời Phật, để giúp ích phần nào cho kẻ hậu học. Lạm đem cái thấy biết cạn hẹp, hầu mở mang cho đàn vượn ngốc. Do đó, diễn tả lòng mình, tự làm chú giải. Tìm áo nghĩa nơi Long cung, dò lời mầu nơi Thứu lãnh, nhỏ từng giọt nước trong nguồn Chánh giác, bồi từng hạt bụi trên đường Chân như. Phát huy u chỉ, mở sáng chân tông, khiến người vừa mở xem, liền thấy nghĩa rõ ràng. Phá giậu phên cố chấp của bọn tà, làm thầy nhóm nghĩa đồ nghi thức. Vọng kiến mênh mang, dần biết hướng chầu phương bắc, đường mê chi chít, tạm biết lối chánh về nam. Để làm chỗ nương cho học giả, mới thấy lòng Trẫm không keo sẻn. Cho nên làm lời tựa.

 

Giảng

Sau khi đọc và giải thích xong quyển kinh Kim Cang Tam-muội, ngài Trần Thái Tông có làm bài tựa gọi là “Tựa kinh Kim Cang Tam-muội”. Rất tiếc quyển kinh Ngài giảng đã mất, chỉ còn lại bài tựa chúng ta học hôm nay. Đọc bài tựa này chúng ta biết tổng quát quyển kinh Kim Cang và biết được tâm niệm của Ngài đối với người hậu học.

“Trẫm nghe bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng, tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm được mối manh; tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng; có không chung lại, đạo tục san bằng; sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài. Đây là trọng yếu tánh Kim Cang vậy.”

Trước tiên Ngài giải thích thế nào là tánh Kim Cang.

“Bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng.” Bản tánh yên tịnh mà nhiệm mầu, chân tâm trong trẻo, lặng lẽ không dấy động.

“Tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm được mối manh.” Hai bên tròn và khuyết đều không còn, không thể dùng trí suy gẫm hiểu biết để tìm ra manh mối của chân tâm. Vì bản tánh chân tâm lìa đối đãi, nên dù dùng trí tìm hiểu cũng không thể được.

“Tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng.” Tan và hợp đều quên, hai đối đãi đều dứt, dùng mắt dùng tai để thấy nghe vẫn không thể được. Dù cố lắng tai nghe hay chú mắt nhìn, chúng ta không bao giờ nghe được vang, thấy được bóng của chân tâm bản tánh.

“Có không chung lại, đạo tục san bằng.” Có không đều hợp nhất, có không riêng ngoài không, không cũng không ngoài có. “Đạo tục san bằng”, đạo là người xuất gia, tục là người tại gia, hai bên đều bình đẳng, người xuất gia có bản tánh chân tâm, người cư sĩ cũng có chân tâm bản tánh. Chân tâm lìa đối đãi không mắc kẹt hai bên, không thể nói người xuất gia mới có chân tâm, người tại gia vô phần. Ai ai cũng bình đẳng như nhau.

“Sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài.” Sừng sững riêng còn là chỉ bản thể rõ ràng sừng sững, trùm khắp, vượt hơn tất cả, không có cái gì thoát ngoài nó được.

“Đây là trọng yếu tánh Kim Cang vậy.” Tánh Kim Cang quan trọng là như vậy. Tánh Kim Cang là chỉ bản tánh chân tâm của con người. Tại sao?  Vì Kim Cang là chất cứng nhất đối với tất cả những loài khoáng sản, nó phá được tất cả chất cứng khác mà không chất nào phá được nó. Cũng vậy, tất cả sự vật mắt thấy tai nghe đều là tướng đối đãi sanh diệt nên là tạm bợ giả dối. Còn bản tánh chân tâm không phải là tướng sanh diệt nên dụ như Kim Cang. Bản tánh chân tâm là từ chuyên môn để chỉ tánh thấy nghe hiểu biết của chúng ta. Tánh này không bị vô thường sanh diệt mà nó bao trùm tất cả cái vô thường sanh diệt, cho nên dùng từ “sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài”.

Bản tánh Kim Cang ai ai cũng có, nhưng nếu có người đặt câu hỏi: Tánh Kim Cang của tôi ở đâu? Có ai chỉ được không? Nghe lời Phật Tổ dạy chúng ta tin mình có tánh Kim Cang, nhưng không biết nó ở đâu. Vậy tánh Kim Cang có hay không? Đây là một câu hỏi để chúng ta suy gẫm, rồi một lúc nào bỗng nhiên chúng ta biết mình có thật, không còn nghi ngờ nữa.

“Bởi chúng sanh đã lâu huân nhiễm nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động, kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay tuệ quang soi sáng rất ít.” Ai cũng có chân tâm thanh tịnh, nhưng do nghiệp tập huân vào làm cho nhơ nhớp, khắn chặt nơi mình. Huân nhiễm là chữ Hán, huân là xông ướp, nhiễm là nhuốm nhơ. Thí dụ như chúng ta có cái khăn tay trắng mới chưa có nhiễm dơ. Muốn khăn có mùi thơm hoa lài, chúng ta lấy hoa lài ủ vào, một lát sau khăn có mùi thơm hoa lài đó gọi là ướp. Muốn có mùi thơm hương trầm, chúng ta đốt gỗ trầm và xông khói cái khăn, một chốc sau, khăn có mùi hương trầm đó gọi là xông. Vậy khăn không tự có mùi thơm hương trầm hay hoa lài mà phải nhờ xông ướp. Như thế từ không, xông ướp mãi thành có, mùi thơm tuy có mà không thấy, tuy không thấy mà vẫn dính. Chúng ta cũng như vậy, ai cũng có chân tâm thanh tịnh, thanh tịnh thì đâu có nhiễm ô, nhưng vì xông ướp những tập nghiệp thế gian, lâu ngày trở thành nhơ nhớp. Những tập nghiệp đó là gì? Thí dụ như chúng ta quen ai làm việc gì vừa ý thì vui, không như ý thì giận. Chân tâm vốn thanh tịnh, không có nóng giận, nhưng vì thói quen muốn hơn thiên hạ, muốn được tiếng khen, nên bị chê thì nổi giận liền. Đó là do mới huân tập, chớ không phải chân tâm sẵn có. Từ khi lọt lòng mẹ đến nay, nếu không có ai khen chê thì sau này khi nghe chê chúng ta có giận không? Hẳn là không. Sở dĩ có giận vì chúng ta quen được khen, nên bị chê là nổi tức ngay, đó gọi là huân tập, là xông ướp thói quen. Lời khen có khi thật, có khi khen cho vừa lòng, nếu nghe khen là vui, quen được như vậy, đó là ngầm chấp cái ngã của mình là tốt là hay. Vui mừng hay nổi giận vốn không có trong chân tâm thanh tịnh mà do xông ướp những thói quen của thế gian biến thành nghiệp cứng chắc nơi mình.

“Tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động.” Chữ thức ở đây không phải là vọng thức mà chỉ cho thức thứ chín, gọi là thức Am-ma-la theo tiếng Phạn. Chúng ta có sẵn thức thanh tịnh nhưng bị sóng gió tri kiến làm cho lay động. Đây không phải tri kiến Phật mà là tri kiến chúng sanh. Sóng gió tri kiến là do thấy nghe hiểu biết đuổi theo sáu trần, làm cho biển thức thanh tịnh bị xao động nổi sóng.

“Kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không.” Khi đuổi theo sáu trần chúng ta buông lung hạnh nhớp, tức là buông theo những niệm tham sân si, làm che đậy tâm thức trong sạch sáng suốt nơi mình.

Đoạn này ngài Trần Thái Tông muốn nói: Mọi người ai cũng có chân tâm thanh tịnh, nhưng vì đuổi theo sáu trần nên dao động, tạo những hạnh nhớp nhơ che đậy bản tánh trong sạch, sáng suốt. Số người này rất nhiều.

“Người xoay tuệ quang soi sáng rất ít.” Còn người biết xoay trí tuệ sáng suốt soi chiếu lại bản tánh chân tâm, không để bụi nhơ phủ kín, số người này quá ít. Như vậy mỗi ngày chúng ta chạy theo sắc, thanh, hương, vị... độ bao nhiêu giờ, còn được bao nhiêu phút ngồi để xoay lại tìm cái chân thật nơi mình. Ở Thiền viện mỗi ngày chắc chắn chúng ta được sáu tiếng đồng hồ ngồi xoay lại nhưng vẫn bị thiệt thòi, vì ma ngủ che mắt ít ra cũng mất hai tiếng, chỉ còn bốn tiếng cho người biết xoay lại, thật là quá ít! Còn thời gian thả trôi ra ngoài lại quá nhiều, khi tỉnh khi mê, lúc quên lúc nhớ, không hoàn toàn sáng suốt. Khi mê lầm chạy theo bên ngoài thì thế nào?

“Bèn khiến bốn phương đổi chỗ, mơ màng hướng về; lối tẽ đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ.” Nếu chúng ta buông lung hạnh nhớp thì bản tánh bị che mờ, tâm thể bị khuất lấp, “bèn khiến bốn phương đổi chỗ”, tức là không biết nhận định đâu chánh đâu tà, đâu chân đâu ngụy. Cho nên “mơ màng hướng về”, đối với đường trở về bản tánh, chúng ta mơ màng không biết.

“Bốn phương đổi chỗ”, trong kinh Lăng Nghiêm có nói rất rõ. Thí dụ như cái bàn có bốn góc, mỗi góc ở một phương: phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc. Như hiện giờ tôi đang ngồi giữa, tôi nói: Đây là đông, đây là tây, kia nam, kia bắc. Giả sử tôi đổi chỗ ngồi sang một bên phía đông thì góc bàn phía đông đối với tôi biến thành phía tây. Nếu tôi đổi qua ngồi phía trên thì góc bắc biến thành nam mất rồi. Thế nên nói bốn phương đổi chỗ vì khi mình dời vị trí, bốn hướng cũng đổi theo, không có cố định. “Bèn khiến bốn phương đổi chỗ” tức là không tìm ra được hướng cố định nữa, nên đường về sẽ mơ màng không nắm vững.

“Lối tẽ đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ.” Đã đi lầm trong lối tẽ, chúng ta không còn nhận ra đường chánh. Đi trong đường tẽ mà tưởng lầm là đường cái thì không bao giờ tìm ra đường cái được.

“Bản giác thủy giác đâu rành, chân tâm vọng tâm khó phân biệt.” Bản giác là chỉ cho tánh giác sẵn có nơi mọi người, còn thủy giác là chỉ cho tánh giác mới ngộ thấy sau này. Như vậy thủy giác là cái mới nhận, bản giác là cái sẵn có. Trong nhà Thiền hay đặt câu hỏi: Ai xúi giục các ông đi tu? Cha mẹ không xúi giục, anh chị em cũng không,  vậy ai xúi giục mình đi tu? Chính là bản giác. Vì động cơ bên trong là bản giác nên nó mới thúc đẩy mình đi tìm cái giác. Vậy nếu ai có hỏi: tại sao Thầy đi tu, thì trả lời: Tại bản giác của tôi thúc đẩy tôi đi tu. Đó là một sự thật mà ít người biết được. Cũng như nhân đói bụng mình mới đi tìm cơm cháo, ai xúi giục? Bao tử đói là động cơ bên trong, nó mới xúi mình được. Có nhu cầu nơi mình cho nên mình mới tìm kiếm cái đó. Cũng như vậy, bản giác thúc đẩy mình đi tìm cái giác, nó ngầm sâu bên trong, chúng ta không thấy. Đến khi học đạo rồi thỉnh thoảng chúng ta thức tỉnh, giác ngộ được chân lý sẵn có nơi mình. Nhận ra sau gọi là thủy giác, tức là cái giác sau.

Tôi giải thích xa hơn một chút: Trên chánh điện Thiền viện Trúc Lâm, ở giữa thờ đức Phật Thích-ca, hai bên là tượng Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền. Thường ở các chùa thì tượng ngài Văn-thù cỡi sư tử, cầm kiếm, còn ngài Phổ Hiền cỡi voi, cầm hoa sen. Nhưng ở Thiền viện đây có hơi khác, hai vị Bồ-tát là hai biểu trưng: Bồ-tát Văn-thù biểu trưng cho trí tuệ bản giác hay Căn bản trí. Ngài cầm một vật giống như ống loa và cầm cây gõ, tiếng nó vang lên, mình lắng tai nghe, đây là tượng trưng cho bản giác hay Căn bản trí có sẵn nơi mỗi người. Còn Bồ-tát Phổ Hiền tay cầm quyển sách xem là huân tập những hiểu biết hiện tại, Ngài tượng trưng cho thủy giác hay là Sai biệt trí. Căn bản trí hay bản giác là gốc giác ngầm sẵn có bên trong, nó thúc đẩy mình đi tìm cái giác. Sai biệt trí hay thủy giác có công dụng giáo hóa chúng sanh. Hiểu như vậy mới biết mỗi vị Bồ-tát có chỗ tượng trưng khác nhau.

Nơi các chùa khác, hình ảnh hai Ngài tượng trưng cho trí tuệ và hạnh nguyện. Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, cầm kiếm là tượng trưng trí tuệ cắt đứt tất cả dây triền phược. Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi, cầm hoa sen là tượng trưng cho hạnh nguyện giáo hóa chúng sanh. Nếu có trí tuệ mà không hạnh nguyện để đem ứng dụng, đó là trí tuệ suông, không có lợi ích cho ai. Thế nên phải có hạnh nguyện mới làm được những điều lợi lạc, tức là phải lăn vào trong cõi đời ô trược để cứu độ chúng sanh. Hiểu như vậy chúng ta mới rõ ý nghĩa tượng trưng của mỗi hình tượng Bồ-tát.

“Chân tâm vọng tâm khó phân biệt.” Như hiện giờ chúng ta nói chân tâm, vọng tâm, nhưng không biết cái nào là chân, cái nào là vọng. Khi chúng ta dấy niệm suy nghĩ, đó là vọng tưởng, vọng tâm.  Còn biết rõ ràng không mờ mịt, biết một cách sáng suốt mà không niệm khởi, đó là chân tâm.

“Vàng ròng lẫn trong chất quặng, trăng sáng cùng bụi mù hiện chung.” Đây rất khó giản trạch. Khi vàng ròng ở trong quặng, trong mỏ, khó phân biệt cái nào là vàng, cái nào là cặn bã, cũng như “trăng sáng cùng bụi mù hiện chung”. Khi trăng sáng, ánh sáng rọi khắp bầu trời, khắp cả hư không, lúc đó có những hạt bụi lẫn trong hư không thì ánh trăng rọi chung với bụi, thật khó phân biệt cái nào là bụi, cái nào là ánh sáng mặt trăng. Nhưng ánh sáng và bụi khác nhau, ánh sáng sáng mà không động, bụi thì lay động lăng xăng. Trong kinh Lăng Nghiêm có một ví dụ: Ban ngày mặt trời lên, ánh nắng rọi qua cửa sổ, nhìn theo làn ánh sáng, chúng ta thấy rất nhiều hạt bụi lăng xăng bay qua lại. Ánh sáng sáng mà không động, bụi thì lay động, nhưng bụi và ánh sáng không thể tách rời nhau được, chính chỗ này là chỗ thiết yếu của sự tu. Bụi động mà không ngoài ánh sáng, vọng tưởng là động mà không ngoài chân tâm. Chân tâm không động mà hằng tri hằng giác, giống như ánh sáng mặt trời, sáng mà không động, còn bụi ở trong ánh sáng đó thì lay động, dời đổi chỗ luôn. Vậy chúng ta tu phải khéo giản trạch, nếu ngồi để tìm chân tâm là bệnh, thật ra chân tâm không cần tìm, tìm chân tâm hay cầu giác ngộ đều là bệnh. Không tìm cầu, chỉ nhìn ánh sáng có bụi, thì biết bụi, biết ánh sáng. Ánh sáng không phải là bụi, bụi không phải là ánh sáng, biết rõ như vậy thì không quên ánh sáng. Vì thế tôi chỉ đơn giản nói: “biết vọng không theo” là đủ. Không theo vọng thì chân hiện, không phải tìm đâu xa. Thế mà có nhiều người không biết, ngồi lại tìm cho ra cái chân, càng tìm càng mất, càng tìm càng xa, tại sao? Vì nó là hiện hữu, lại đi tìm nó, thành ra mất cái hiện hữu, chỗ này phải rất tinh tế mới nhận ra được.

“Cố hương, lầm về chốn nào? Diện mục, quên mất bản lai.” Không nhận ra chân tâm, cũng không biết vọng tâm, chân vọng không phân, như thế là chúng ta đã lẫn lộn bụi và ánh sáng, đất quặng và vàng ròng, không biết đâu là thật đâu là giả. Khi đã lầm rồi thì chúng ta quên mất cố hương, cho nên nói “cố hương, lầm về chốn nào”. Muốn về cố hương nhưng không biết nơi đâu. Chúng ta cứ nghĩ mình xa quê hương trăm ngàn dặm, nên bây giờ tìm về nơi đó. Thật ra cố hương là nơi không nơi, không nơi không chốn, nhưng lại là chỗ muôn đời của mình. Hiện nay do hoặc nghiệp tạo ra thân cảnh, chúng ta đuổi theo, đây là chỗ tạm, không phải cố hương, chúng ta chỉ là khách tạm, vậy cố hương ở đâu? Nếu chúng ta không phân biệt được chân vọng, không thấy rõ bản giác, thủy giác, thì chúng ta đã quên cố hương, không biết đâu mà tìm.

“Diện mục, quên mất bản lai.” Mặt thật xưa nay của mình cũng quên mất. Đã quên cố hương thì quên mất cả mặt thật xưa nay. Mặt chúng ta hiện nay vài mươi năm sau thì hoại mất không còn, cho nên nó không thật. Mặt thật xưa nay mới là chân diện mục mà mình đã quên mất, chỉ sống với cái tạm bợ thôi.

“Trên đường Niết-bàn rất khó tiến lên, hang ổ sanh tử chui vào có lúc.” Bởi quên mất cố hương, quên mất bản lai diện mục, nên con đường Niết-bàn muốn tiến lên, làm sao tiến được? Vì không tiến được nên đang chui vào hang ổ của sanh tử, chúng ta quả thật là những kẻ ngu si.

“Cho nên Thầy ta bậc Năng Nhân chỉ ‘vô sanh từ nhẫn’.” Ngài Trần Thái Tông nói Thầy ta là chỉ đức Phật, là bậc Năng Nhân, tức là có khả năng làm cho mọi người hết khổ được an vui (Nhân là nhân từ, cứu người hết khổ). Vì thế nên Ngài chỉ ra pháp “vô sanh từ nhẫn”, tức là lòng từ an nhẫn chỗ vô sanh. Vô sanh là chủ yếu của kinh Kim Cang Tam-muội.

“Vì thương các khổ đắm chìm nên ôm ấp ‘tứ hoằng thệ nguyện’; nhọc nhằn da diết ‘tam tư’.” Đức Phật thương xót chúng sanh đang chịu đau khổ chìm đắm trong sanh tử, nên Ngài mới ôm ấp “tứ hoằng thệ nguyện”:

            Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

            Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,

            Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

            Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Vì thương chúng sanh chìm đắm trong biển khổ nên đức Phật ôm ấp lòng từ bi nguyện độ tất cả chúng hàm linh.

“Nhọc nhằn da diết tam tư” {Tam tư: Phàm khi sắp phát khởi hai nghiệp thân và ngữ (lời nói), cần phải có tam tư (ba điều suy nghĩ).}, lòng Ngài luôn luôn nhọc nhằn da diết trong việc độ sanh.

1. Thẩm lự tư: tức là trước khi muốn nói cần phải suy nghĩ cho cặn kẽ.

2. Quyết định tư: tức là trước khi hành động phải có suy nghĩ quyết định (dứt khoát).

3. Động phát thắng tư: tức là khi thân và ngữ (lời) hành động thì cần phải suy nghĩ xem việc nào thiện ác, việc nào tốt nhất để làm.

Trong đây, hai cái tư đầu thuộc về ý nghiệp. Cái tư thứ ba (động phát thắng tư) là thuộc về hai nghiệp thân và ngữ.

“Pháp thân lắng lặng, Báo thân hiện ra, điềm lành hiện rõ ở triều Chu. Chánh pháp đi, Tượng pháp lại, nơi điện Hán mộng thấy người vàng.”

“Pháp thân lắng lặng” là nói về pháp thân thanh tịnh, tịch tĩnh không dấy động. “Báo thân hiện ra” nghĩa là báo thân từ pháp thân mà hiện, do phúc báo hiện ra hình tướng. “Cho nên điềm lành hiện rõ ở triều Chu”, thể pháp thân bất sanh bất diệt lắng lặng không hình tướng, nhưng vì bi nguyện, nên mới dùng báo thân hiện ra đời để cứu độ quần sanh. Chữ “triều Chu” là chỉ đời nhà Chu. Theo Thánh ký ở Trung Hoa, đức Phật sanh ra năm thứ hai mươi sáu đời Chu Chiêu Vương, tức là năm 1127 trước Công Nguyên. Pháp thân lắng lặng, báo thân tùy duyên ứng hiện ra đời, vì thế đức Phật mới sanh ra ở Ấn Độ, nhằm triều nhà Chu bên Trung Hoa.

“Chánh pháp đi, Tượng pháp lại, nơi điện Hán mộng thấy người vàng.” Thời chánh pháp là năm trăm năm đầu lúc đức Phật còn tại thế. Thời tượng pháp là năm trăm năm kế tiếp sau. Trong thời sau này vua Hán Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Bình thứ bảy, năm sáu mươi bốn trước Công Nguyên, một đêm nằm mộng thấy có người vàng, trên đầu tỏa ánh hào quang. Nhà vua mới hội quần thần lại, hỏi người đó là ai? Có người biết nói đó là hình ảnh đức Phật bên Ấn Độ, nhà vua mới cho người sang Tây Trúc thỉnh kinh, và rước chư Tăng về.

“Ngài Ca-diếp Ma-đằng, Trúc Pháp Lan chở kinh vào, Tây Trúc (Ấn Độ) Chấn Đán (Trung Hoa) mới thông.” Hai vị Tăng Ấn Độ theo lời mời của vua Hán Minh Đế chở kinh về Trung Hoa. Từ đó Ấn Độ với Trung Hoa mới thông, Trung Hoa mới hiểu những kinh điển của Phật.

“Kinh chữ Phạn dịch ra văn Trung Hoa sáng tỏ, đổi lá bối viết vào giấy lụa.” Ở Ấn Độ ghi kinh trên lá bối, từng miếng xâu lại thành một thiên, gồm một ngàn miếng, nên từ thường dùng là bối diệp, tức là kinh lá bối. Kinh từ chữ Phạn dịch sang văn Trung Hoa rất sáng tỏ, ghi kinh không dùng lá bối nữa mà viết vào lụa  trắng.

“Biển giáo phô bày mọi trân bảo, nghĩa trời hiện rực các vì sao.” Biển giáo tức là giáo lý Phật rộng như biển cả, trong ấy toàn là những lời vàng ngọc quí báu. “Nghĩa trời hiện rực các vì sao”, nghĩa của kinh mênh mông như trời cao biển rộng, trong kinh có những điểm sáng suốt rất là cao quí.

 “Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn, hoặc mong bổ túc chỗ còn sót, nối gót theo lối Y Ngô, tiến chân trên đường Lưu sa.” Ngài Trần Thái Tông khi đọc kinh Phật thấy một hai chỗ chưa ổn, Ngài muốn làm cho dễ hiểu hơn, hoặc thấy những chỗ còn thiếu sót, Ngài muốn bổ túc cho được đầy đủ. Đó là “nối gót theo lối Y Ngô”, tức là bắt chước  đi theo con đường buôn bán tơ lụa để qua Ấn Độ. Các vị Tăng khi xưa cũng theo đường đó từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Đường Y Ngô thuộc vùng đất của Hung Nô ngày xưa, nhà Đông Hán chiếm lấy làm đường sang Tây Vức, nay thuộc huyện Cáp Mật tỉnh Tân Cương. Đây là vùng sa mạc nên cũng gọi là Lưu sa, lưu là di chuyển, sa là sa mạc, tức là đường lưu chuyển qua vùng sa mạc. Như vậy ý ngài Trần Thái Tông muốn nói khi đọc kinh Phật Ngài hiểu được những điều cao siêu quí báu, Ngài muốn nối gót theo những vị truyền giáo ngày xưa từ Ấn Độ sang Trung Hoa, nên Ngài cố gắng tìm cách để bổ túc thêm những chỗ còn thiếu sót.

“Vượt biển không xa, quyết chí về Trung Quốc.” Các vị truyền giáo khi trước hay Tổ Bồ-đề-đạt-ma sau này cũng đều đi đường biển sang Trung Hoa.

“Từ đời Hán bắt đầu, đến nay mở rộng.” Khởi sự từ đời Hán Minh Đế đến nay, sự truyền bá Phật pháp càng ngày càng mở rộng.

“Nào là: Thiên, Viên, Bán, Mãn không thiếu ở hòm châu.” Chữ thiên là chỉ cho thiên lệch, nằm một bên, viên là tròn đủ, bán là phân nửa, mãn là đầy khắp. Trong những bài kinh, tùy duyên người hỏi, đức Phật trả lời. Người căn cơ cao Ngài dạy pháp cao, người căn cơ thấp Ngài dạy thấp. Đối với người ngoại đạo, Ngài dùng luận ngoại đạo để chuyển họ trở về chánh pháp. Bởi thế Phật nói pháp không có nhất luật giống nhau, có khi chỉ nói phân nửa hay một phần chân lý. Còn những bài kinh gọi là “Vô vấn tự thuyết”, nghĩa là không ai hỏi mà tự lòng Phật muốn dạy, đó mới thật là kinh gốc. Tùy hỏi mà đáp, cao thấp khác nhau, nên trong kinh Phật có những bài kinh chưa viên mãn. Thí dụ như trong kinh Thi-ca-la-việt hay là “Lễ Bái Lục Phương”, ông Thi-ca-la-việt sáng nào cũng ra trước nhà lạy sáu phương. Một hôm ông đang lạy, Phật đi tới hỏi: Ông lạy cái gì? Ông đáp: Tôi cũng không biết nữa, cha tôi khi trước dạy sáng nào cũng phải lạy sáu phương, tôi cứ y lời cha dạy mà làm. Nhân đó đức Phật mới dạy ý nghĩa lễ bái lục phương, lạy phương đông là ý nghĩa gì, phương tây ý nghĩa gì v.v... Từ ý của ngoại đạo Ngài chuyển về đạo lý chân thật, nhưng chưa phải hoàn toàn, chỉ có một phần thôi nên gọi là thiên hay bán. Song tất cả pháp Phật dạy đều chứa đựng những của báu, cho nên nói “không thiếu ở hòm châu”, nghĩa là rương chứa đầy châu báu.

“Nào là: Đốn, Tiệm, Thật, Quyền dẫy đầy trong rương báu.” Đốn là đốn ngộ. Tiệm là tiệm tu, là pháp tu từ từ. Thật là chỉ ngay cái chân thật. Quyền là dùng phương tiện để hướng dẫn người đi. Vì thế giáo lý của đức Phật, đốn tiệm thật quyền tuy có khác, nhưng đều là của báu, nên tất cả đầy dẫy trong rương báu không có thiếu. Tóm lại ngài Trần Thái Tông tán thán kinh điển Phật dạy, Ngài thấy kinh Phật là rất cao quí, mênh mông rực rỡ như những hòn ngọc quí, những của báu vô giá. Dù trong kinh có chia ra thứ bậc sai biệt, nhưng đều là của báu chớ không phải thường.

 

> TỰA – Kinh Kim Cang Tam Muội:  [ 1 ]   [ 2 ]

(Theo: Trần Thái Tông - Khóa Hư Lục Giảng Giải - Thích Thanh Từ - 1996)

 Đạo PhậtKhóa Hư Lục – Trần Thái Tông - Astrology.vn - About us

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (14): TỰA - BÌNH ĐẲNG SÁM HỐI

> KHÓA HƯ LỤC - (13.7-2): KHÓA LỄ SÁU THỜI SÁM HỐI - SÁM HỐI TỘI CĂN Ý

> KHÓA HƯ LỤC - (13.7-1): KHÓA LỄ SÁU THỜI SÁM HỐI - DÂNG HƯƠNG CUỐI ĐÊM

> KHÓA HƯ LỤC - (13.6-2): KHÓA LỄ SÁU THỜI SÁM HỐI - SÁM HỐI TỘI CĂN THÂN

> KHÓA HƯ LỤC - (13.6-1): KHÓA LỄ SÁU THỜI SÁM HỐI - DÂNG HƯƠNG NỬA ĐÊM